Tìm hiểu về cây sả
Hãy mua sản phẩm này
-
Nước lau sàn sả chanh Lam Hà 1 lít
115.000đ -
Tinh dầu sả chanh Lam Hà
75.000đ
Tên khoa học: Cymbopogon nardus (Linnaeus) Rendle
- Cymbopogon flexuosus (Nees ex Steudel) Will. Watson
- Họ Hoà thảo: Poaceae (Gramineae)
I. Nguồn gốc, thành phần hoá học và tác dụng dược lý:
1. Nguồn gốc
Sả là cây cỏ mọc hoang dại mọc chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cũng thích nghi với vùng á nhiệt đới. Các nước châu Á có truyền thống trồng sả có sản lượng xuất khẩu là: Indonexia, Srilanca, Goatemala, Trung Quốc, Ấn Độ, Philipin, Đài Loan...Ở nước ta sả mọc hoang dại ở khắp các vùng trong nước ; nhiều tỉnh đã sản xuất trên diện tích lớn để chưng cất tinh dầu. Do trong thân lá có tinh dầu có mùi thơm hấp dẫn và cùng một số hợp chất hữu cơ tốt dùng làm dư ợc liệu để chữa bệnh nên đã được con ngư ời trồng trọt. Đến nay đã là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế cao của nhiều nước trên thế giới.
2. Thành phần hoá học và tác dụng dược lý
Sản phẩm chính của cây sả là tinh dầu được tích luỹ trong thân lá. Hàm lượng tinh dầu biến động từ 0,4 - 2,0 % tuỳ thuộc vào giống, điều kiện vùng sinh thái (khí hậu đất đai) và chế độ chăm sóc, bón phân.
Ví dụ: Giống sả Cymbopogon nardus của Xrilanca từ 0,4 % đến 0,8 % nhưng giống sảCymbopogon winterianus Jowitt ex Bor của Giava hàm lượng tinh dầu từ 0,8 - 2,0 %
Trong tinh dầu sả có nhiều hợp chất có mùi thơm như: Citral, geraniol, acetat, caproat geranyl, dipenten, metylheptenon, carvon và một số ít aldehyd như heptandehyd và citronellol. Trong các hợp chất này thì geraniol, citronellol, citrat có hàm lượng cao nhất.
Hai giống sả đang trồng ở nước ta là sả chanh, trong tinh dầu có hàm lượng citrat cao hơn giống sả Srilanca (C. nardus) đạt từ 70 – 80 %. Giống sả Srilanca có hàm lượng genariol tới 40% nên chất lượng tinh dầu tốt hơn. Tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tinh dầu là phải có hàm lượng genariol cao hơn hàm lượng citral.
Tinh dầu sả là chất lỏng không màu, màu lục nhạt hoặc màu nâu, loại không màu có chất lượng tốt nhất, điển hình là sả Ấn Độ (Cymbopogon martinii) có tên thương hiệu là Panmarosa tỷ trọng của tinh dầu sả từ 0,888 - 0,896.
Tinh dầu sả có nhiều hợp chất thơm nên được sử dụng nhiều trong công nghiệp điều chế sản xuất mỹ phẩm, công nghiệp chế biến xà phòng ... Tinh dầu sả có khả năng ngăn chặn một số loại vi khuẩn nên được sử dụng dùng làm thuốc để điều trị cảm cúm, viêm mũi hoặc dùng để tẩy uế trong phòng mổ.
Ngoài ra, nhân dân ta và một số nước khác còn dùng thân cây, lá cây sả làm gia vị trong nhiều món ăn truyền thống. Do giá trị đặc biệt của tinh dầu nên trên thế giới hiện có nhiều nước trồng sả, trong đó có khoảng 10 nước có diện tích và sản lượng xuất khẩu cao. Đài Loan là nước có sản lượng tinh dầu sả lớn nhất trên 50 % tổng sản lượng thế giới, mỗi năm sản xuất 2600 tấn tinh dầu sả. Srilanca - Một nước có diện tích bằng 1/5 nước ta nhưng hàng năm cũng sản xuất 601 tấn tinh dầu sả (Nguyễn Năng Vinh- Kỹ thuật khai thác và sơ chế tinh dầu, NXB Nông Nghiệp, 1978)
Khối lượng giao dịch trên thị trường tới 100.000 tấn/năm và có chiều hướng gia tăng qua các năm. Những nư ớc Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Anh là thị trường có mức tiêu thụ cao nhất. Chỉ riêng nước Pháp năm 1968 phải nhập tới 1176 tấn và năm 1969 đã nhập 1131 tấn.
Sản xuất và tiêu thụ ở trong nước:
Ở nước ta cây sả đã được trồng từ lâu ở cả hai miền Nam và Bắc. Vào thời thực dân Pháp xâm lược đã trồng sả để chiết xuất tinh dầu. Năm 1957 nhà nước đã có chủ trương khôi phục và phát triển diện tích trồng sả và các cơ sở chiết xuất tinh dầu của người Pháp để lại. Tại miền Bắc trồng sả có diện tích lớn ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Dư ơng, Hưng Yên. Diện tích lớn nhất lên tới 1200 ha. Sản lượng tinh dầu đạt cao nhất vào các năm 1974- 1977 (từ 73.200 - 90.000 kg).
Sản xuất cây sả ở các tỉnh từ nam miền Trung, Tây Nguyên, Sông Bé, Đồng Nai, Minh Hải, TP. Hồ Chí Minh rất ít, tổng diện tích đạt 325 ha, nơi có diện tích lớn nhất là thành phố Hồ Chí Minh là 235 ha và có hai cơ sở chư ng cất tinh dầu nhưng sản lượng tinh dầu cũng chỉ đạt (120 - 250 kg/năm). Sự phát triển cây sả ở các tỉnh miền Trung và miền Nam hầu như rất ít được quan tâm, chỉ trồng chủ yếu là để bán thân tươi làm gia vị, làm vị thuốc trong dân gian chứ chưa trồng để làm nguyên liệu để chưng cất tinh dầu.
II. Đặc tính sinh vật học của cây sả
Sả là một loài hoà thảo dễ mọc, phát triển nhanh, có thể sống trên những đồi thoai thoải. Cây sả không kén chọn đất và hầu như không chiếm đất trồng cây lương thực.
1. Đặc điểm thực vật
* Bộ rễ: Rễ chùm, mọc tập trung ở đốt thân đầu tiên và có khả năng phát sinh trên tất cả các đốt của thân, nhánh. Trong điều kiện đất tơi xốp giàu chất hữu cơ, bộ rễ có thể phân bố rộng tới hơn 20 cm, ăn sâu xuống mặt đất 15 - 20 cm, rễ ăn sâu nhất không quá 40 cm
Là loài cây hoà thảo như ng rễ có khả năng chịu hạn khá hơn một số loài hoà thảo khác; tuy nhiên ẩm độ cao, đất tơi xốp vẫn là điều kiện tốt cho rễ phát sinh, phát triển. Ẩm độ đất thấp (55%) hoặc quá cao (> 80 %) đều rất bất lợi cho rễ phát triển.
* Thân, nhánh:
Thân cây sả có nhiều đốt, các gốc có đốt rất ngắn chỉ từ 0,2 - 3 cm, các đốt ở phía trên dài dần nhưng không quá 2 cm. Vì vậy chiều cao cây biến động từ 10 - 20 cm. Trên mỗi đốt mang một mầm lá, một mầm ngủ mọc sole và đai rễ có thể phát sinh nhiều rễ, nên các đốt của đoạn thân trên cũng phát sinh rễ bất định. Các mầm ngủ phát sinh trên thân khoẻ tạo thành nhánh cấp I, các nhánh cấp I cũng phát sinh ra nhiều nhánh cấp II. Do vậy ban đầu trồng một cây sả về sau sẽ phát triển thành bụi sả. Trung bình một cây có thể phát sinh 80 - 100 nhánh. Đất tốt đủ dinh dưỡng, đủ ẩm có thể đạt tới 130 - 150 nhánh. Do bẹ lá ôm gần vòng thân và xếp sít nhau nên thân sả phía trên có màu trắng ngà, đoạn gốc thân có màu nâu vàng.
* Lá:
Lá là bộ phận để chưng cất tinh dầu. Lá gồm có bẹ lá ôm sát thân, có gốc lá và phiến lá dài, mềm hơn bẹ. Chiều dài phiến lá gấp 1,5 - 2 lần bẹ lá. Chiều dài lá biến động rất lớn từ 0,5 - 0,7 m hoặc có thể tới 1,3 - 1,6 m. Khi ta thu hoạch thường cắt phần phiến lá. Số lá trên thân, cành tương ứng với số đốt. Trong kỹ thuật chăm sóc chúng ta cần chú ý để cho cây có tán lá rộng, phiến lá phát triển tốt, năng suất và tỷ lệ tinh dầu cao.
2. Yêu cầu sinh thái
Khí hậu: Thích nghi cho cây sả phát triển là 22 – 270C. Nếu nhiệt độ dưới 100C kéo dài, các tế bào của sả bị chết. Nếu nhiệt độ trên 300C kéo dài cây sinh bệnh khô lá và có thể bị chết.
Nước: Lượng mưa trên 1500 mm/năm phân bổ đều từ 100 mm/tháng trở lên là điều kiện thích hợp để cây sả có thể phát triển tốt nhất. Ẩm độ không khí thích hợp là 80 – 85%, ẩm độ đất thích hợp là 70 – 75 %
Ánh sáng: Cây sả là loại cây rất cần đầy đủ ánh sáng để tiến hành quang hợp và cho sự tích tụ tinh dầu trong tế bào lá. Số giờ nắng trong tháng 180 - 250 giờ (50 – 60 % tổng số giờ ban ngày) thì sinh trưởng tốt.
Khi trồng sả ở những nơi thiếu ánh sáng, lá sả sẽ mỏng và tỷ lệ tinh dầu trong lá thấp. Trồng sả ở những đất dãi nắng lá sả xanh, tỷ lệ tinh dầu trong lá cao.
III. Kỹ thuật trồng sả:
1. Chuẩn bị giống
Ở nước ta có tới 9 loài sả khác nhau trên thực bì nhưng chỉ có một loài Cymbopogon nardus(Linnaeus) Rendle và loài Cymbopogon flexuosus (Nees ex Steudel) Will. Watson là được đưa vào sản xuất. Sả là cây nhân giống bằng phư ơng pháp vô tính. Vì vậy chọn nhánh sả tốt để trồng rất có ý nghĩa trong sản xuất.
Cách chọn giống:
- Chọn ruộng: Phải chọn sả giống trên ruộng sả có tuổi 1,5 - 2 năm, có năng suất và tỷ lệ tinh dầu cao, sạch sâu bệnh.
- Chọn cây: Cây sinh trưởng tốt, có nhiều nhánh, nhánh to, đều.
- Chọn nhánh (tép): Chọn những nhánh to, đốt ngắn, cứng
Cách xử lý nhánh sả giống:
Sau khi tách nhánh sả khỏi thân, bóc bớt lá khô chỉ để lại 2 lá khô sát với các lá xanh. Chặt bớt gốc thân chỉ để lại đoạn thân dài 3 - 5 cm. Cắt phiến lá chỉ để lại đoạn thân dài 3-5 cm sát gốc. Như vậy ta có một nhánh sả tốt hay một hom giống tốt. Dùng dây mềm bó thành từng bó cách gốc 7-8 cm. Chú ý dựng đứng các bó khi cất.
Số lượng tép giống cho 1 ha: 44.000 - 50.000 tép nặng khoảng 700 - 800 kg.
Để chủ động sản xuất thì nên có ruộng giống riêng. Ruộng giống cần chọn đất tốt, cày bừa kỹ hơn, chọn giống sả tốt và thuần, tăng lượng phân bón thêm 25 %. Chuẩn bị diện tích giống phù hợp để đón thời vụ trồng. Tỷ lệ lượng giống đã trồng đủ 12 tháng.
Giống sả sau khi xử lý cần được trồng ngay. Khi chưa trồng được cần được bảo quản nơi thoáng mát. trước khi trồng n ên hồ rễ bằng cách; trộn bốn phần phân chuồng hoai mục + 5 phần nước bùn đặc + 1 phần Supe lân, khuấy đều. Sau đó ngâm phần gốc nhánh sả sau 3 h. Sau khi hồ rễ có thể đem trồng ngay hoặc bảo quản bằng cách dựng đứng các hom giống thành từng hàng, dài 5 - 10 m trên nền đất tơi xốp, tưới đẫm nước. Sau bảo quản 5-7 ngày rễ bắt đầu nhú trắng thì đem trồng ngay là tốt nhất.
Chú ý: Trong quá trình vận chuyển, bảo quản không được để hom giống dập nát, héo úa.
2. Chọn đất, làm đất
Chọn đất: Đất trồng sả cần chon đất có đủ độ ẩm, xốp, thoát nư ớc tốt, tầng màu sâu trên 40 cm, nhiều chất mùn tự nhiên.
Độ pH từ 6 - 7 (trung tính) là thích h ợp với cây sả. Nếu đất quá chua cần bón vôi để giảm độ chua.
Những đất sau đây không thích hợp với sả:
- Độ ẩm kém, đồi có nhiều đá sỏi.
- Đất chua hoặc bị úng nước.
- Đất cát
Làm đất:
Cày bừa kỹ, để ải sau đó bừa lại. Đất bãi cày sâu 20 - 25 cm, đất đồi cày sâu 18 - 20cm. Đất đồi cày bừa theo đường đồng mức để tránh xói mòn, làm sạch rễ cỏ rễ cây nhất là cỏ tranh. Sau khi bừa, đất phải được san phẳng để tránh đóng váng cục bộ.
Lên băng: mặt băng rộng 3 - 4 m. chiều cao băng 18 - 20 cm. Rãnh rộng 30 cm để dễ chăm sóc và thoát nước khi mưa lớn.
3. Phân bón và cách bón phân
Để ruộng sả cho năng suất, tỷ lệ tinh dàu cao và ổn định cần có chế độ phân bón hợp lý:
Bảng lượng bón và cách bón phân cho cây sả
Chú ý: Phân lân ủ cùng với phân hữu cơ 30 ngày cho hoai mục
Khi bón phân: Phải xới đất theo hàng để bỏ phân, lấp đất để quá trình bón không làm ảnh hưởng đến bộ lá.
Trên các vườn sả năm thứ hai trở đi càn tiến hành bón bổ sung nếu thấy tình trạng vườn cây xấu.
4. Thời vụ trồng
Ở miền Bắc có 2 thời vụ trồng, vụ tốt nhất là vụ xuân (tháng 2, 3). Những nơi ít rét và đủ ẩm độ, có thể trồng sớm từ tháng 1 đến tháng 3. Vụ thu (tháng 8, 9) vụ này sả phát triển kém hơn vụ xuân.
Ở miền Nam có vụ hè (tháng 5) và vụ đông xuân (tháng 10). Trong đó vụ đông xuân là vụ sả sinh trưởng phát triển tốt hơn.
5. Mật độ, khoảng cách trồng
Xác định mật độ trồng rất quan trọng vì nó sẽ tạo điều kiện cho cây sinh trưởng, phát triển tốt. Mật độ trồng thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, chế độ thâm canh. Các mật độ trồng được áp dụng như sau:
Vùng đất có điều kiện khí hậu tốt:
Thâm canh cao có mật độ trồng: 65000 cây (khoảng 22000 khóm) = 120 x 40 (cm) x 3 (tép).
Vùng đất trung bình, thâm canh vừa phải có mật độ: 75000 cây (khoảng 25000 khóm) = 80 x 50 (cm) x 3 (tép)
Vùng đất thấp, ít màu mỡ, khí hậu ít thuận lợi có mât độ: 86000 cây (khoảng 42000 khóm) = 70 x 50 (cm) x 3 (tép)
Cách trồng: rạch hàng dọc theo băng với độ sâu 20- 25 cm, bón phân và phủ một lớp đất mỏng 3 cm, các tép sả được trồng thẳng đứng giữa hàng hoặc hốc. Vun đất, nén chặt đất quanh gốc để gốc sả ngập sâu 4- 5 cm. Sau khi trồng dùng cỏ khô, rơm rạ, lá sả sau khi chưng cất tủ hai bên hàng cây để giữ ẩm.
6. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
Sả trồng mới sau khi trồng 40- 50 ngày xới váng diệt cỏ kết hợp. Sau khi thu hoạch lứa đầu (sau trồng 4 - 6 tháng ở miền Bắc, 4 - 5 tháng ở các tỉnh miền Nam) tiến hành bón thúc lần 1.
Chú ý: Khi làm cỏ năm đầu không vun gốc. Các năm sau sả đẻ tới đâu vun gốc tới đó. Để tránh rễ bị đứt, phải xới xa gốc, sâu 6 - 7 cm.
+ Chống hạn: Trồng xong nếu gặp hạn cần tưới nước kết hợp với ủ gốc bằng lá sả hay rơm rạ để giữ ẩm.
+ Trời mưa đọng, phải khơi rãnh thoát nước kịp thời.
+ Phòng hỏa: Cây sả dễ bị hoả hoạn, nhất là khi trời hanh khô (vì sả chưa nhiều tinh dầu, lại có nhiều lá khô). Cần có ý thức bảo vệ không hút thuốc lá hoặc đốt lửa gần. Vïng
Phòng trừ sâu bệnh: sả tương đối ít sâu bệnh, đáng chú ý có bệnh khô lá và sâu đục thân.
7. Thu hoạch và bảo quản lá sả
+ Thu hoạch:
Năm đầu tiên, sả trồng vụ xuân (tháng 1- 3), thì 5 - 6 tháng sau có thể thu hoạch được lứa đầu, và ngay trong năm đó có thể thu thêm 2 - 3 lứa nữa.
Qua năm thứ 2 và các năm sau nếu chăm sóc đúng kỹ thuật có thể thu 5 -6 lứa trong một năm.
Năng suất thu hoạch được từ lá sả trong mỗi lứa phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:
- Đất trồng tốt hay xấu.
- Khí hậu (mưa, nắng, gió) qua các tháng trước sau mỗi lứa.
- Tình hình chăm sóc (làm cỏ, xáo, xới...), bón phân...
Tại các tỉnh miền Bắc từ cuối xuân sang hè tới cuối thu, thời tiết có mưa nhiều, trời ấm phù hợp cho cây sả phát triển cho nên sau 40 - 50 ngày có thể thu hoạch một lứa. Về mùa đông giá rét khô hanh thời gian 60 - 65 ngày mới thu hoạch được một lứa.
Cũng như các hoa màu khác, lá sả phải thu hoạch đúng lứa thì mới được sản lượng lá lớn và tỷ lệ, chất lượng tinh dầu cao. Thời gian đúng lứa ấy cũng chỉ ở phạm vi một số ngày nhất định, cho nên cần bố trí nhân lực thu hoạch kịp thời, nếu muốn có năng suất cao.
Sau đây là một số chỉ tiêu để tiến hành thu hoạch sả. Những chỉ tiêu này mới dựa vào những kinh nghiệm nhiều năm tại nhiều cơ sở. Một số chỉ tiêu đã là kết quả của nhiều công trình nghiên cứu.
Thời điểm thu hoạch sả tốt nhất: Là lúc cây sả đã có từ 5 - 6 lá trưởng thành. Ngọn lá tính từ ngoài vào trong dài kho ảng 5 - 6 cm đã chớm khô, màu lá từ xanh chuyển sang màu vàng.
Bộ phận thu hoạch chỉ là lá nhưng trong lá nên biết răng lá vừa đúng lứa chứa nhiều tinh dầu hơn lá già, lá phía trên của cây nhiều tinh dầu hơn lá mọc ở phía dưới cây nhưng phẩm chất tinh dầu của lá phía trên lại kém hơn. Bẹ lá chứa ít tinh dầu h ơn phiến lá, 1/3 của lá phía đầu lá chứa nhiều tinh dầu hơn 2/3 phiến lá phía sát gốc. Ngày trời nắng sả có nhiều tinh dầu hơn ngày mưa. Lá héo chứa nhiều tinh dầu hơn lá khô (héo còn 50% nước).
Khi thu hái chú ý không nên cắt thâm vào thân cây sả. Như trên đã xác định bẹ lá cũng như thân cây sả chưa rất ít tinh dầu. Nếu cắt thâm vào thân cây vừa tốn công cắt, công vận chuyển, tốn nhiên liệu được ít tinh dầu mà lại ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của cây sả vì cây sả bị cắt thâm vào thân khi bị mưa dễ ngậm nư ớc và bị thối nơi bị cắt, gặp trời nắng cây cũng dễ bị khô và có thể dễ sinh bệnh khô lá, cho nên ở các nước khác người ta quy định cắt lá sả từ trên gốc sả 20 cm trở lên.Thời gian thu hoạch lá sả tốt nhất trong ngày là từ 9 - 10 giờ sáng dến 3- 4 giờ chiều. Sả trồng năm thứ nhất có thể cho thời gian thu hoạch được 4 - 6 tháng, thời gian giữa giữa 2 lần cắt từ 38 - 40 ngày. Từ năm thứ hai trở đi, số lần thu hoạch tăng lên, năng suất và hàm lượng tinh dầu cũng tăng Một chu kỳ kinh tế của một ruộng sả có thể tới 5 - 6 năm. Tuy nhiên hàm lượng tinh dầu đạt cao nhất vào năm thứ 2.
Trồng một năm có thể thu một lượng tối thiểu là 15 - 18 tấn/ha lá tươi. Năng suất lá, tỷ lệ tinh dầu của cây sả phụ thuộc nhiều vào yếu tố ngoại cảnh, đất đai, khí hậu, việc đầu tư chăm sóc bảo quản vườn cây tốt.
+ Bảo quản lá sả
Lá sả có thể cất tươi hoặc cất khi héo khô. Do đó gần nơi chưng cất sả nên có nhà kho để dự trữ thường xuyên để cất trong 1 - 2 ngày.
Cất lá héo thì công vận chuyển có thể giảm 40 – 50 %, lượng lá cho vào mỗi mẻ cất tăng được từ 20 – 40 %, lượng than củi đun giảm 35 %, thời gian chưng cất giảm 27 %
(Bộ môn Tinh dầu, dầu béo - Đại Học Bách Khoa Hà Nội - Nguyễn Đăng Vinh, 1977). Để lá nhanh héo khi thu hoạch nên trải mỏng lá trên ruộng (trời nắng), trên nền phơi (trời mưa) hoặc bó thành bó nhỏ treo trên dây. Lá được phơi héo tới thuỷ phần trong cây còn khoảng 50 % thì đem chưng cất là tốt nhất. Trong trường hợp chưa kịp chưng cất ngay, lá sả héo có thể để được 3-5 ngày nhưng không được chất đống. Những biểu hiện của khối nguyên liệu bị giảm phẩm chất là có thể bị mất mùi thơm đặc trưng, màu lá chuyển từ xanh vàng sang bạc xám.
Chưng cất tinh dầu sả cũng theo nguyên tắc chưng cất những loại tinh dầu khác nhưng có phần nhanh hơn. Thường tính từ lúc sôi đến khi hết tinh dầu khoảng 3 - 4 h.